Cho đến ngày nay, người ta chỉ biết lịch sử của người Khmer qua một nguồn duy nhất là các thư tịch cổ của các triều đại Trung Hoa. Người Trung Hoa viết về Khmer lần đầu tiên nhất vào giữa thế kỷ thứ III Tây lịch sau khi ông Kang Tai (康泰, Việt đọc là Khương Thái) và Zhu Ying (朱應, Việt đọc là Chu Ưng), là hai học giả người Dong Wu (吴国, Việt đọc là Ngô Quốc, hay Đông Ngô) đã đến và sinh sống ở vương quốc Khmer trong thời gian 5 năm, từ năm 245 đến năm 250, Tây lịch.
Những ghi chép của hai ông này được viết lại và lưu giữ trong thư tịch của Đông Ngô.
Theo đó, người Trung Hoa gọi đất nước của người Khmer là «扶南» (Funan – Hán cổ đọc là Phu Nam, người Việt đọc là Phù Nam).
Đến thế kỷ thứ VII, vào thời nhà Đường (唐朝), người Trung Hoa lại gọi tên đất nước của người Khmer là «真臘» (Zhēnlà – Hán cổ đọc là Zan Laap, Việt đọc là Chân Lạp), tức là «Sáp nguyên chất», «真»(Chân) nghĩa là thực, còn «臘» (Lạp) nghĩa là sáp ong. Do người các thuyền buôn của người Trung Hoa thường mua được sáp ong nguyên chất ở khu vực Kramuon Sar (nay người Việt gọi là Kiên Giang).
Vì trong cổ tịch Trung Hoa tồn tại hai vương quốc «Phù Nam» và «Chân Lạp» nên nhiều người không hiểu mối quan hệ giữa hai «hai vương quốc» này, và vương quốc nào là vương quốc của người Khmer? Vương quốc của người Khmer là Phù Nam hay Chân Lạp? Hay là một quốc gia nào khác nữa?
Theo tiêu chuẩn Châu Âu, một khu vực địa lý được gọi là một quốc gia khi nó hội đủ 3 tiêu chí là: Có lãnh thổ riêng, có biên giới bao bọc, và có một thủ đô riêng. Thiếu một trong số ba tiêu chí trên thì người ta không thể khẳng định được vùng lãnh thổ đó là một quốc gia.
Về vấn đề này, Giáo sư Xavier Galand trong cuốn Histoire de la Thaïlande viết rằng «Sở dĩ chúng ta công nhận Phù Nam là một quốc gia riêng biệt là do người Trung Hoa cố ý làm cho Phù Nam có những đặc điểm của một quốc gia để họ có thể nhận cống phẩm từ quốc gia này. Cũng có khi những người đứng đầu các nhóm Khmer nhỏ lẻ tập trung lại để có đặc điểm là một quốc gia duy nhất để cống vật phẩm cho Trung Hoa mà thôi».
Nhận định này cho chúng ta thấy rằng, người Pháp không tin rằng người Khmer cổ có khả năng sắp xếp xã hội để thành lập một quốc gia. Người ta cho rằng người Khmer thời bấy giờ sống thành những nhóm nhỏ, những bộ lạc như người Bản địa (Indians) ở Châu Mỹ vậy.
Nhận định này hoàn toàn sai lầm, nó còn cho thấy người phương Tây hoàn toàn không biết rõ về xã hội và quốc gia của người Khmer cũng như người Trung Hoa thời cổ đại. Thực chất, người Khmer đã sắp xếp được xã hội từ rất lâu đời, thậm chí lâu hơn nhiều người vẫn tưởng.
Trong suốt chiều dài lịch sử, người Khmer đã có những quốc gia của mình, và các hình thái quốc gia – xã hội này đã thay đổi theo thời gian. Nếu tính theo các mốc thời gian, các hình thức nhà nước của người Khmer có thể chia theo 3 giai đoạn chính là:
– Từ trước Tây lịch
– Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ XIV
– Từ sau thế kỷ XIV
1. Trước Tây lịch
Trước Tây lịch, Quốc gia của người Khmer có cấu trúc như các quốc gia hiện đại trên thế giới. Vương quốc của người Khmer thời bấy giờ là một quốc gia thuần nhất, một quốc gia duy nhất của một dân tộc duy nhất và có một nhà nước duy nhất. Chế độ cai trị là chế độ Quân chủ theo Mẫu hệ, nghĩa là có một nữ vương quản lý đất nước. Chế độ mẫu hệ này, người Khmer thừa hưởng từ tổ tiên là người Munda và cũng là chế độ nhà nước của họ có từ mấy ngàn năm trước.
Lãnh thổ của Vương quốc Khmer thời bấy giờ rất rộng. Phía Bắc giáp với dãy núi Vân Nam (thuộc Trung Hoa ngày nay), Phía Nam kéo dài đến giáp với lãnh thổ mà nay là Malaysia, phía Đông giáp với Biển Trung Hoa kéo dài từ bắc Prey Nokor (Việt gọi là Sài Gòn, tức biên giới với Champa) đến Tirk Khmau (Việt gọi là Mũi Cà Mau), phía Tây giáp với eo biển Bengal. Dù thế nào đi chăng nữa, đây là châu lục của người Khmer vì các dân tộc mà hiện nay đang sinh sống gần với người Khmer, vào thời kỳ này vẫn chưa xuất hiện.
Dân tộc Siam mà người Trung Hoa gọi là «暹» (Việt gọi là Xiêm), lúc này vẫn còn ở phía tây Hoàng Hà. Dân tộc này di cư xuống phía Nam ở phía đông dãy núi Vân Nam, thành lập vương quốc «Nanzhao» (南詔, Việt gọi là gọi là Nam Chiếu). Dân tộc này đặt chân lên lãnh thổ của người Khmer đầu tiên vào năm 1238, năm mà họ đánh chiếm được thành phố Sokhaotey (Người Siam gọi là «Sukhothai» สุโขทัย).
Người Việt, có nguồn gốc từ Nam sông Yangtze (Việt gọi là Trường Giang hoặc Sông Dương Tử), cũng di cư xuống phía Nam, và chỉ mới đến vùng đất mà nay là vùng Bắc Kỳ vào khoản năm 257 trước Tây lịch.
Riêng người Chăm, dân tộc này có nguồn gốc từ từ đảo Java và Malaysia. Người Chăm cũng có được vương quốc đầu tiên của mình vào năm 197 Tây lịch do nữ vương Rama dựng nên.
Các dân tộc lân bang của người Khmer thời đó chỉ có người Vân Nam ở phía Bắc, người Mon ở phía Tây. Dân tộc Vân Nam rất yếu và không có tầm ảnh hưởng gì đối người người Khmer, tuy nhiên, người Mon lại là một mối nguy hiểm lớn cho người Khmer, nhất là vào thời Angkor.
Riêng người Hoa, biên giới phía Nam của họ sông Dương Tử, nơi tận cùng phía Nam mà người Hoa cai trị là thành phố của người Quảng Đông là thành phố «Hanhai» (南海, Việt gọi là Nam Hải). Riêng trong triều đại nhà Tần, được xem là triều đại thống nhất Trung Quốc thành lập năm 221 thì lãnh thổ cực Nam cũng chỉ đến «Qiyang» ( 祁陽, Việt gọi là Kỳ Dương, nay thuộc tỉnh Hunan, tức Hồ Nam).
Người Khmer gọi nước «Tần» (秦, Qin) là Chen. Và từ này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay để gọi các dân tộc và quốc gia Trung Hoa.
Thời đó, người Khmer không có quan hệ bang giao với nước ngoài. Lãnh thổ rộng lớn, dân số không đông, nói cách khác, người Khmer thời bấy giờ có đủ đất sống. Bởi thế nên, người ta không quan tâm đến biên giới và địa giới lãnh thổ và vương quốc của người Khmer không có biên giới.
Người Khmer không có định nghĩa về «Biên giới», thậm chí cho đến ngày nay, phạm trù biên giới không rõ ràng đối với người Khmer, người Khmer quan niệm rằng «Nơi nào có người Khmer sinh sống, nơi đó là đất đai của người Khmer».
Người ta cũng không rõ Kinh đô của người Khmer thời đó tên là gì. Và cũng không thể xác định rõ vị trí của nó. Tuy nhiên, vương quốc của người Khmer tất nhiên phải có kinh đô là nơi nữ vương sinh sống.
Tuy vậy, người ta lại biết rất rõ tên của vương quốc Khmer vào thời đó. Người Khmer tự gọi vương quốc là «Srok Khmer» (Xứ Khmer). Những nhà nghiên cứu về văn hóa, lịch sử Khmer luôn bắt gặp từ «Srok Khmer» , tuy nhiên họ lại không chú ý đến tên này mà ngược lại họ cố gắng quan tâm đến các tên mà người Trung Hoa gọi đất nước của người Khmer, là «Funan» hay «Chenla».
Người Khmer gọi vương quốc của mình là «Srok Khmer» từ rất sớm, có thể là vào đầu thời gian họ đến sống ở vị trí hiện tại, tức là khoảng 6,000 năm trước Tây lịch. Ngày nay, tất cả mọi người Khmer, già hay trẻ, lớn hay nhỏ, vẫn đều gọi đất nước của mình là «Srok Khmer». «Srok Khmer» có nghĩa là xứ sở của người Khmer chứ không phải là xứ sở của một sắc tộc nào hay một dòng họ lãnh chúa nào khác.
Việc đặt tên như vậy không phải là một chuyện ngẫu nhiên mà nó phù hợp với sự phát triển rực rỡ của dân tộc Munda. Hồi 10,000 năm trước Tây lịch, người Munda đã thành lập được hơn 10 Nhà nước Cộng hòa.
2. Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ XIV Tây lịch
Là giai đoạn mà Bà La Môn giáo du nhập vào Srok Khmer.
Bắt đầu là vào khoảng năm 50 Tây lịch, Bà La Môn Kaundinya có nguồn gốc là người Khlaing (từ người Khmer gọi người có nguồn gốc từ Ấn Độ, đã được đề cập ở chương trước) trở thành vua của Srok Khmer. Từ đó, trên tổng thể, cấu trúc xã hội Khmer được sắp xếp theo cấu trúc xã hội của một quốc gia Bà La Môn giáo, tức tương tự như cấu trúc nhà nước của người Ấn thời đó, cấu trúc này khác hoàn toàn so với các quốc gia khác như Trung Hoa và các nước phương Tây.
Người ta không thể đưa ra các nhận định gì về vương quốc của người Khmer nếu chưa tìm hiểu về các vương quốc ở Ấn Độ thời bấy giờ.
Vì không hiểu nhiều về cấu trúc của các vương quốc Ấn Độ cổ, nhiều nhà nghiên cứu phương Tây không thừa nhận rằng, người Khmer có một quốc gia hoàn thiện như các quốc gia khác. Số khác thì hoài nghi, không hiểu tại sao người Khmer lại có hai quốc gia «Funan» và «Chenla»
Vương quốc Kalinga (hay Ấn Độ ngày nay), có diện tích rất rộng, từ dãy núi Himalaya xuống đến vịnh Comorin và từ Punjab kéo sang đến vịnh Bengal và có thủ đô là thành phố Delhi, mãi đến thế kỷ thứ XIX mới có sự phân bố và cấu trúc như hiện nay. Cấu trúc hiện nay được người Anh thiết lập và vẫn còn tồn tại, dù Anh không còn thực dân vùng đất này nữa.
Trước đây, bán đảo Ấn Độ có rất nhiều tiểu vương quốc và các vương quốc lớn hơn, con số các vương quốc ở Ấn Độ có thể lên đến 600 vương quốc. Có nhiều vương quốc nhỏ chịu sự thống trị của một vương quốc lớn (quan hệ mẫu quốc và tiểu quốc). Ở Ấn Độ có Vương quốc có một vua đầy quyền lực và cũng trong vương quốc ấy có các lãnh chúa cai quản các diện tích lãnh thổ nhỏ hơn, dưới quyền của quốc vương. Quan trọng hơn cả, các vương quốc này không hề đánh chiếm đất đai của quốc gia láng giềng, họ chỉ đơn giản muốn các quốc gia khác trở thành quốc gia phụ thuộc quốc gia mình mà thôi.
Theo truyền thống Ấn Độ cổ, người ta lấy tên của hoàng gia cai trị vùng đất hay tên thủ đô đặt tên cho vương quốc của họ.
Các vương quốc Maurya Gupta và vương quốc Chalukya được đặt theo tên dòng họ cai trị vùng đất đó. Các vương quốc được đặt tên theo tên của thủ đô có thể kể như là Nocca , Uttara Jini, Vijayanagara, …
Vương quốc Khmer thời Bà La Môn giáo có cấu trúc hoàn toàn giống như vương quốc của người Ấn, tức trên lãnh thổ của dân tộc Khmer có rất nhiều quốc gia lớn nhỏ khác nhau, có vị Đại vương và cũng có các tiểu vương cai trị những vùng đất phụ thuộc. Người Khmer cũng sử dụng tên hoàng tộc cai trị vùng đất đặt làm tên quốc gia. Ví dụ như vương quốc Kampuchéah được đặt theo tên của Bà La Môn Kampu là người thành lập vương quốc này. Cũng như người Ấn, người Khmer còn sử dụng tên kinh đô đặt cho vương quốc của mình.
Trường hợp này có thể kể đến rất nhiều như: Angarpura (hay Angkor Borey, nay thuộc tỉnh Takéo, Campuchia), Bhavapura (hay Pheaveah Borey, nay là khu vực Wat Phu, Champasak thuộc Lào), Sampurnapura (hay Sambo Borey, nay thuộc tỉnh Kratié, Campuchia), Indrapura (hay Intreah Borey, nay thuộc Kampong Cham, Campuchia), Isanapura (Hay Eysan Borey (nay là khu vực Sambor Preykuk thuộc tỉnh Kampong Thom, Campuchia) , Aninadittapura (hay Anineahtitta Borey, nay là khu vực Rlous, Campuchia), Malayang (nay thuộc Battambang, Campuchia), Lavoteya (nay là khu vực Lopburi, Thái Lan), Sokhaoteya (hay Sukhothai, nay thuộc Chiang Mai, Thái Lan), Candapura (hay Chan Borey, nay thuộc Chonburi, Thái Lan), Nokor Reach Seyma (nay là Nakhon Si Thammarat, Thái Lan), Nokor Reach (nay là Korat, Thái Lan), … tổng cộng có đến 60 vương quốc của người Khmer dưới thời vua Suryavarman II.
Mãi cho đến thế kỷ thứ VII của Tây lịch, Vương quốc phát triển hùng mạnh nhất và trở thành nước thống trị các tiểu vương quốc khác là Angkor Borey (ngày nay là tỉnh Takeo và khu vực thuộc An Giang, Kiên Giang), mà người Trung Hoa gọi là Funan (Việt gọi là Phù Nam).
Các vương quốc khác đều có các tiểu vương cai trị.
Đến năm 630, Vương quốc Kampuchéah (Tầu gọi là Zhēnlà, Việt gọi là Chân Lạp) trở nên hùng mạnh hơn, đánh bại Angkor Borey và trở thành Vương quốc thống trị.
Kể từ đó Quốc vương của Kampuchéa là vua thống trị toàn lãnh thổ Khmer và quốc vương Angkor Borey (hay biết đến là Phù Nam) vẫn quản lý tiểu quốc của mình và không còn là vị đại vương thống trị các tiểu vương của các tiểu quốc khác nữa.
Hai quốc gia Angkor Borey (Funan, Phù Nam) và Kampuchéa (Zhenla, Chân lạp) và nhiều tiểu vương quốc khác nữa, đều là những vương quốc của người Khmer.
Một số nguồn sử Việt viết rằng Chân Lạp, nguyên là một nước chư hầu của Phù Nam, phát triển hùng mạnh và đánh bại vương quốc Phù Nam. Thực tế đúng là như vậy, tuy nhiên, «Đánh bại» ở đây không phải là xâm chiếm lãnh thổ như người Tầu xâm chiếm lãnh thổ người Việt hay người Việt đánh chiếm lãnh thổ người Chăm, mà là sự tranh giành địa vị thống trị giữa các quốc vương.
Hơn nữa, sử Việt do ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, một quốc gia – dân tộc với chủ trương «thống nhất thiên hạ» đã không thể hiểu rằng cả hai quốc gia Angkor Borey (Phù Nam) và Kampuchéah (Chân Lạp) và hơn 60 tiểu quốc khác đều là các vương quốc của người Khmer, thế nên có chăng là sự tranh giành ảnh hưởng của các quân chủ chứ không phải là chiến tranh giữa các quốc gia.
Hơn nữa, người Việt căn cứ vào sự kiện Vương quốc Kampuchéa đánh bại Angkor Borey rồi cho rằng người Khmer (nước Chân Lạp) đánh chiếm đất đai của người Phù Nam (không rõ của dân tộc nào?) và dựa theo luận điểm đó, họ tuyên bố người Khmer không phải là chủ đầu tiên của vùng đất hạ nguồn sông Mekong, mà ngày nay được gọi là lãnh thổ Kampuchea Krom.
Điều này chứng tỏ, người Việt, có nguồn gốc từ Trung Hoa, hoàn toàn không hiểu gì về lịch sử vùng đất, dân tộc, văn hóa Đông Nam Á mà chỉ căn cứ vào những tên gọi khác biệt trong thư tịch của Tàu rồi diễn dịch sao cho có lợi cho dân tộc họ.
Với cấu trúc Đại quốc và các tiểu quốc chư hầu như vậy, các nước chư hầu phải cống nạp và cung cấp quân đội cho Đại quốc theo yêu cầu.
Đại Quốc vương có trách nhiệm bảo vệ và đảm bảo hòa bình cho các nước chư hầu và là người thay mặt cho toàn bộ các vua, chúa trên lãnh thổ Khmer thực hiện việc bang giao với các nước khác. Chính vì lý do này mà người Trung Hoa, trong hai lần đi sứ đến lãnh thổ Khmer thì gọi vương quốc của người Khmer bằng 2 tên khác nhau là Funan (Phù Nam) và Zhenla (Chân Lạp). Hơn nữa, khi lần đi sứ đến Phù Nam, họ không hề nghe đến vương quốc Chân Lạp, và lần đi sứ Chân Lạp họ không được nghe nhắc đến đến vương quốc Phù Nam nữa.
3. Giai đoạn từ thế kỷ thứ XIV
Từ thế kỷ XIV đến ngày nay là giai đoạn của Phật giáo Nguyên Thủy (Theravāda). Trong giai đoạn này, có 3 sự kiện quan trọng diễn ra trên lãnh thổ Khmer:
a. Phật giáo Theravāda chính thức trở thành Quốc giáo của người Khmer, cùng với đó là sự suy vong của Bà La Môn giáo.
b. Sự thay đổi vương triều. Vương triều của các Varman bị mất quyền cai trị và thay thế bằng Vương triều mới, cai trị đến tận ngày nay.
c. Sự phát triển của dân tộc Siam (Người Xiêm)
Tất cả các sự kiện này đều có liên quan đến nhau. Kết quả là dân tộc Khmer suy yếu vì bị người Siam đánh bại và thâu tóm hết tất các các vương quốc chư hầu như: Lavoteya, Kampuchéa, khu vực Ubun, Udon, Surin và Ratchasima, thậm chí người Siam còn đánh chiếm đến nơi thờ Preah Linga giáp với biên giới vương quốc Malaysia.
Một hậu quả cũng nghiêm trọng không kém là người Siam đánh chiếm thành phố Angkor, người Khmer phải rời bỏ thủ đô. Đại vương quốc Khmer bị thu nhỏ dần và còn lại một mảnh đất nhỏ hẹp như hiện nay.
Tên Kampuchéa vẫn được người ta sử dụng và hiện nay người ta gọi lãnh thổ này là Preah Réachéa Nachâk Kâmpuchéa (tức Vương Quốc Kampuchea).